Chính quyền Palestine và các cuộc đàm phán hoà bình Yasser_Arafat

Hiệp định Oslo

Yitzhak Rabin, Bill Clinton, và Arafat trong thời gian đàm phán Hiệp định Oslo ngày 13 tháng 9 năm 1993.

Đầu thập niên 1990, Arafat và các lãnh đạo hàng đầu khác của Fatah tham gia vào một loạt các cuộc đàm phán bí mật với chính phủ Israel dẫn tới Hiệp định Oslo năm 1993.[37][64] Thoả thuận kêu gọi việc áp dụng sự tự quản của người Palestine tại một số phần ở Bờ Tây và Dải Gaza trong giai đoạn năm năm, cùng với một sự ngừng ngay lập tức và dần loại bỏ những khu định cư của Israel tại các khu vực đó. Hiệp định kêu gọi việc thành lập một lực lượng cảnh sát Palestine được tuyển mộ từ người dân địa phương và người Palestine ở nước ngoài, để kiểm soát các vùng tự quản. Quyền lực với nhiều lĩnh vực quản lý, gồm cả giáo dục và văn hoá an sinh xã hội, thuế trực tiếp và du lịch, sẽ được trao cho chính phủ lâm thời Palestine. Cả hai bên đồng ý về việc hình thành một uỷ ban sẽ thiết lập sự hợp tác và phối hợp với các vấn đề kinh tế riêng biệt, gồm cả các cơ sở, công nghiệp, thương mại và viễn thông.[65][66]

Trước khi ký hiệp định, Arafat —với tư cách chủ tịch PLO và là đại diện chính thức của nó- đã ký hai lá thư từ bỏ bạo lực và chính thức công nhận Israel. Đổi lại, Thủ tướng Yitzhak Rabin, thay mặt cho Israel, chính thức công nhận PLO.[67]

Năm sau đó, Arafat và Rabin đã được trao Giải Nobel Hoà bình, cùng với Shimon Peres.[68] Phản ứng của người Palestine khá khác biệt. Mặt trận Cự tuyệt của PLO liên kết mình với những người Hồi giáo trong một mặt trận đối lập chung chống lại các thoả thuận. Hiệp định cũng bị người tị nạn Palestine tại Liban, Syria, và Jordan cũng như nhiều trí thức Palestine khác và giới lãnh đạo chính quyền địa phương Palestine phản đối. Tuy nhiên, những người dân tại các vùng lãnh thổ nói chung chấp nhận thoả thuận và lời hứa của Arafat về hoà bình và thịnh vượng kinh tế.[69]

Thành lập chính quyền tại các vùng lãnh thổ

Theo các điều khoản của Hiệp định Oslo, Arafat được yêu cầu thiết lập chính quyền PLO tại Bờ Tây và Dải Gaza. Ông nhấn mạnh rằng sự hỗ trợ tài chính là tối cần thiết cho việc thành lập chính quyền này và là cần thiết để đảm bảo sự chấp nhận các thoả thuận của người Palestine sinh sống tại những vùng đất đó. Tuy nhiên, các quốc gia Ả Rập Vùng Vịnh Péc xích vốn thường là những nhà tài trợ của Arafat đã từ chối cung cấp cho PLO và ông ta bất kỳ khoản tiền lớn nào bởi tình cảm của ông với Iraq trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991.[69] Ahmed Qurei —một nhà thương thuyết hàng đầu của Fatah trong những cuộc đàm phán tại Oslo— đã công khai thông báo rằng PLO đang ở tình trạng phá sản.[70]

Năm 1994, Arafat rời tới Thành phố Gaza, một trong những vùng đất do Chính quyền Quốc gia Palestine (PNA) —thực thể lâm thời được tạo lập theo hiệp định Oslo- quản lý.[68] Arafat trở thành Tổng thốngThủ tướng của PNA, Tổng tư lệnh Quân đội Giải phóng Palestine (PLA) và Người phát ngôn của Hội đồng Lập pháp Palestin (PLC). Tháng 7, sau khi PNA được tuyên bố là chính phủ chính thức của người Palestine, Luật Căn bản của Chính quyền Quốc gia Palestine được PLO công bố,[71] trong ba phiên bản khác nhau. Arafat bắt đầu xây dựng một cơ cấu cho PNA. Ông thành lập một hội đồng hành pháp hay nội các gồm hai mươi thành viên. Arafat cũng có quyền tự do thay thế và chỉ định các thị trưởng và các hội đồng thành phố tại các thành phố lớn như Gaza và Nablus. Ông bắt đầu sáp nhập các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, và an sinh xã hội dưới chính quyền mình bằng cách thay thế các lãnh đạo và giám đốc được bầu ra bằng các quan chức Chính quyền Quốc gia Palestine trung thành với mình. Sau đó ông tự chỉ định mình là chủ tịch tổ chức tài chính Palestine đã được Ngân hàng Thế giới thành lập để kiểm soát hầu hết các khoản viện trợ tài chính cho thực thể Palestine mới.[69]

Arafat đã thành lập một lực lượng cảnh sát Palestine, với tên gọi Lực lượng An ninh Ngăn chặn (PSS), bắt đầu hoạt động ngày 13 tháng 5. Nó chủ yếu gồm các binh sĩ PLA và những người Palestine tình nguyện ở nước ngoài. Arafat chỉ định Mohammed DahlanJibril Rajoub lãnh đạo tổ chức này.[69] Ân xá Quốc tế đã cáo buộc Arafat và giới lãnh đạo PNA vì đã không điều tra một cách thích đáng các vụ lạm dụng do PSS gây ra (gồm cả tra tấn và giết hại trái pháp luật) các đối thủ chính trị và những người bất đồng cũng như những vụ bắt giữ các nhà hoạt động nhân quyền.[72]

Ngày 24 tháng 7 năm 1995, vợ của Arafat là Suha đã sinh một bé gái tại Sorbonne, Pháp. Cô bé được đặt tên là Zahwa theo tên người mẹ đã mất của Arafat.[61]

Trong suốt tháng 11, 12 năm 1995, Arafat đã đi tới hàng chục thành phố và thị trấn Palestine đã bị các lực lượng Israel di tản, gồm cả Jenin, Ramallah, al-Bireh, Nablus, QalqilyahTulkarm, tuyên bố chúng đã được "giải phóng". PNA cũng giành được quyền kiểm soát dịch vụ bưu chính trong giai đoạn này.[73] Ngày 20 tháng 1 năm 1996, Arafat được bầu làm tổng thống PNA, với đa số 88.2% (ứng cử viên duy nhất khác là nhà tổ chức từ thiện Samiha Khalil). Tuy nhiên, bởi Hamas, DFLP và các phong trào đối lập nhân dân khác lựa chọn tẩy chay cuộc bầu cử tổng thống, những lựa chọn đã bị hạn chế. Thắng lợi lớn của Arafat đã đảm bảo cho Fatah 51 trong tổng số 88 ghế trong PLC. Sau khi Arafat được bầu vào chức Tổng thống PNA, ông thường được gọi là Ra'is, (dịch nghĩa là Tổng thống trong tiếng Ả Rập), dù ông tự gọi mình là "tướng quân".[74]Năm 1997, PLC cáo buộc nhánh hành pháp của PNA quản lý tài chính sai lệch dẫn đến sự từ chức của bốn thành viên trong nội các của Arafat. Arafat đã từ chối từ chức.[75]

Các thoả thuận hoà bình khác

Arafat với các thành viên nội các PNA trong một cuộc họp tại Copenhagen, 1999

Giữa năm 1996, Benjamin Netanyahu được bầu làm Thủ tướng Israel với chênh lệch chỉ một phần trăm. Quan hệ Palestine-Israel thậm chí còn trở nên căng thẳng hơn do hậu quả của một cuộc xung đột tiếp diễn.[76] Dù có thoả thuận Israel-PLO, Netanyahu phản đối ý tưởng về nhà nước Palestine.[77] Năm 1998, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã thuyết phục hai nhà lãnh đạo gặp gỡ. Kết quả là Bản ghi nhớ Sông Wye vạch ra chi tiết các bước sẽ được chính phủ Israel và PNA tiến hành để hoàn thành quá trình hoà bình.[78]

Arafat với Ehud Barak và Bill Clinton tại Hội nghị Thượng đỉnh Trại David, 2000

Arafat tiếp tục những cuộc đàm phán với người kế vị Netanyahu là Ehud Barak, tại Hội nghị Thượng đỉnh Trại David tháng 7 năm 2000. Một phần bởi quan điểm chính trị của riêng mình (Barak thuộc Công Đảng cánh tả, trong khi Netanyahu thuộc Đảng Likud cánh hữu) và một phần bởi sự thúc bách thoả hiệp của Tổng thống Clinton, Barak đã đề xuất với Arafat về một nhà nước Palestine ở 73% lãnh thổ Bờ Tây và Dải Gaza. Phần trăm chủ quyền của Palestien sẽ được mở rộng lên 91% (94% ngoại trừ Jerusalem) trong một thời hạn mười tới hai mươi năm. Đổi lại là việc chiếm giữ những khu vực ở Bờ Tây nơi có những khu định cư chính của Israel, Barak đề xuất khu vực tương tự ở sa mạc Negev của Israel. Cũng bao gồm trong đề xuất là việc quay trở lại của một số lượng nhỏ người tị nạn và khoản bồi thường cho những người không được phép quay về. Arafat bác bỏ đề xuất của Barak và từ chối thực hiện một đề xuất đổi lại ngay lập tức.[64] Ông nói với Tổng thống Clinton rằng, "nhà lãnh đạo Ả Rập người nhượng lại Jerusalem vẫn còn chưa sinh".[79] Động thái này đã bị thậm chí cả một thành viên trong phái đoàn đàm phán và nội các của ông là Nabil Amr chỉ trích.[64]

Cuộc họp thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới 1996 – Peres, Arafat & Schwab.

Những cuộc đàm phán tiếp tục diễn ra tại Hội nghị Thượng đỉnh Taba tháng 1 năm 2001; lần này, Ehud Barak đã rút khỏi các cuộc đàm phán để thực hiện chiến dịch tranh cử tại Israel. Tháng 10 và tháng 12 năm 2001, những cuộc đánh bom tự sát của các nhóm du kích Palestine đã gia tăng và những cuộc phản kích của Israel cũng tăng thêm, gây ra sự bùng phát của phong trào Intifada lần thứ hai. Sau thắng lợi bầu cử của Ariel Sharon vào tháng 2, tiến trình hoà bình đã có một bước thụt lùi. Cuộc bầu cử của Palestine dự định vào tháng 1 năm 2002 đã bị trì hoãn - lý do được đưa ra là việc không thể thực hiện tranh cử trong khi những điều kiện khẩn cấp đang được áp dụng bởi phong trào Intifada, cũng như những cuộc tấn công và các biện pháp hạn chế tự do di chuyển của quân đội Israel tại các lãnh thổ Palestine. Cũng trong tháng này, Sharon ra lệnh giam giữ Arafat tại trụ sở của ông tại Mukata'aRamallah, sau một vụ đánh bom tự sát tại thành phố Hadera của Israel;[79] Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush ủng hộ hành động của Sharon, tuyên bố rằng Arafat là "một vật cản với tiến trình hoà bình".[80]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Yasser_Arafat http://www.smh.com.au/articles/2004/11/12/11001311... http://books.google.ca/books?id=KwfvvbnEh-IC&pg=PA... http://books.google.ca/books?id=N_G-wELa3xYC&pg=PT... http://www.afp.com/english/home/ http://www.aljazeera.com/programmes/whatkilledaraf... http://www.bbc.com/news/world-middle-east-18695634 http://www.cbsnews.com/stories/2002/09/05/world/ma... http://www.cbsnews.com/stories/2003/11/07/60minute... http://cnnstudentnews.cnn.com/fyi/school.tools/pro... http://www.cnsnews.com/ViewForeignBureaus.asp?Page...